Thực đơn
Đại_Việt_sử_ký_toàn_thư Phản biện của Lê Trọng KhánhTrong bài viết "Quan hệ biến chứng về niên đại bộ Đại Việt sử ký toàn thư – Bản in Nội các quan bản và vấn đề chủ quyền quốc gia về Di sản văn hóa dân tộc", Lê Trọng Khánh cho rằng:[80]
Đại Việt sử ký toàn thư bản Nội các quan bản được dịch, chú giải và hiệu đính bởi các dịch giả Ngô Đức Thọ, Hoàng Văn Lâu, Ngô Thế Long, Hà Văn Tấn dưới sự chỉ đạo của Hội đồng khoa học đứng đầu là Nguyễn Khánh Toàn, Phan Huy Lê và Nguyễn Đức Diệu, được biên tập bởi Lê Văn Quýnh và Nguyễn Duy Chiếm. Năm 1983, nhà xuất bản Khoa học xã hội cho xuất bản, lần đầu tiên, tập một bản dịch Đại Việt sử ký toàn thư bản Nội các quan bản. Tập 2 được tiếp tục ra mắt hai năm sau đó, năm 1985.[31] Do điều kiện ấn loát chưa tốt nên hai tập sách này còn có nhiều sai sót. Do vậy, năm 1993, theo quyết định của Hội đồng chỉ đạo phiên dịch và xuất bản Nội các quan bản, nhà xuất bản Khoa học xã hội cho tái bản tập 1, tái bản có sửa chữa tập 2, đồng thời in tiếp tập 3 và tập 4.
Bố cục của công trình xuất bản này bao gồm:
Công trình này được tái bản trọn bộ vào các năm 1998, 2000, 2004, 2009. Nhân dịp Đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, công ty Đông A phối hợp với nhà xuất bản Khoa học xã hội cho tái bản Nội các quan bản, in thành một tập, khổ lớn 25 cm x3 5 cm, được dịch giả Ngô Đức Thọ chỉnh lý các thông tin mới đối với một số chú thích có các khảo chú về địa danh mà nay các đơn vị hành chính đã có nhiều thay đổi.[81]
Trong bài Về bản Đại Việt sử ký toàn thư in ván gỗ mới được tìm thấy của Phạm Công Trứ đăng trên Tạp chí Hán Nôm số 1 năm 1988, nhà nghiên cứu Ngô Thế Long cho biết rằng trong khi đi tìm các dị bản của bộ sách Đại Việt sử ký tục biên, ông đã tìm thấy ở tủ sách gia đình Nguyễn Văn Huyên một cuốn sử in ván gỗ, giấy cũ đã ngả màu và đã bị mủn nát một phần lề dưới, lan vào một số chữ... (gọi tắt là bản Nguyễn Văn Huyên).[26]
Bìa sách là bìa phất cậy, ở gáy bìa có ghi tên sách là Việt sử tục biên nhưng cả bìa sách và tên sách mới được làm và viết lại cách đó không lâu. Khổ giấy đã gấp 17x28cm, khung in 14x21cm; mỗi tờ 2 mặt, mỗi mặt 9 dòng, mỗi dòng khoảng 18 - 19 chữ; dạng chữ là dạng chữ in đời Hậu Lê, phong cách Liễu Tràng. Ruột sách chia làm hai quyển, ở dòng đầu mỗi quyển đề rằng "Đại Việt sử ký bản kỷ tục biên quyển chi nhị thập" và "Đại Việt sử ký bản kỷ tục biên quyển chi nhị thập nhất" cho biết đây là quyển 20 và 21 của sách Đại Việt sử ký bản kỷ tục biên. Quyển 20 có 23 tờ, quyển 21 có 26 tờ nhưng tờ số 18 của quyển 21 lại là tờ số 18 của quyển 22 đóng lộn vào.[26] Cộng cả sách là 49 tờ.
Nội dung của quyển 20 là lịch sử triều vua Lê Kính Tông từ năm 1600 đến năm 1619, còn quyển 21 là lịch sử triều vua Lê Thần Tông từ năm 1620 đến năm 1643. So với bộ Đại Việt sử ký toàn thư của nhóm Lê Hy thì hai quyển 20 và 21 ở bản Nguyễn Văn Huyên chỉ tương ứng với nửa đầu của quyển 18 phần Đại Việt sử ký bản kỷ tục biên bản Chính Hòa.[26]
Ngô Thế Long và các cộng sự đã giám định văn bản này, đi đến kết luận rằng đây là quyển 20 và 21 của bộ Đại Việt sử ký toàn thư do nhóm Phạm Công Trứ biên soạn, đã khắc in ra vào năm Cảnh Trị thứ 3 (1665).[26]
Thứ nhất, xét về nội dung, bộ sử của nhóm Phạm Công Trứ biên soạn trong những năm Cảnh Trị gồm 23 quyển, riêng phần biên soạn mới chép lịch sử Việt Nam từ đời Lê Trang Tông năm 1533 đến hết đời Lê Thần Tông năm 1662 được đặt tên là Đại Việt sử ký bản kỷ tục biên. Trong khi đó, bản Nguyễn Văn Huyên cũng mang tên là Đại Việt sử ký bản kỷ tục biên, đánh số quyển 20, 21. Nội dung ghi chép lịch sử từ đời Lê Kính Tông năm 1600 đến Lê Thần Tông năm 1656 (căn cứ theo tờ 18 quyển 22). Đoạn trước 1600 và sau 1656 thì bị mất. Đoạn sau 1656 bị mất đó, Ngô Thế Long ước chừng vừa một quyển số 23 nữa[26]. Ông nhận xét rằng tên sách, bố cục, nội dung của bản Nguyễn Văn Huyên phù hợp với Đại Việt sử ký toàn thư của nhóm Phạm Công Trứ.
Thứ hai, xét về hình thức, Ngô Thế Long thấy bản Nguyễn Văn Huyên có cách ghi năm can chi và niên hiệu giống với Đại Việt sử ký toàn thư của nhóm Lê Hy, cùng đề cao vua Lê chúa Trịnh, phê phán nhà Mạc và chúa Nguyễn.[26] Trong bản Nguyễn Văn Huyên, miếu hiệu các chúa Trịnh được viết đài ngang với miếu hiệu các vua Lê ở ngay đầu quyển 20 và 21. Ngô Thế Long cho rằng điều này chứng tỏ bản Nguyễn Văn Huyên được khắc thời Lê trung hưng chứ không phải ở các triều đại sau đó.[26] Mà triều đình Lê Trịnh chỉ cho khắc in có hai bản sách Đại Việt sử ký toàn thư: một là bản Cảnh Trị của nhóm Phạm Công Trứ, được khắc in lần đầu tiên năm 1665 nhưng mới in được khoảng già nửa; hai là bản Chính Hòa của nhóm Lê Hy được khắc in toàn bộ năm 1697 và là nguồn gốc của các bản sách Đại Việt sử ký toàn thư phổ biến hiện nay.
Tiếp tục so sánh nội dung bản Nguyễn Văn Huyên với sách Đại Việt sử ký toàn thư của nhóm Lê Hy, Ngô Thế Long phát hiện một số chi tiết về lịch pháp thiên văn, bản của nhóm Lê Hy đúng mà bản Nguyễn Văn Huyên sai, ví dụ bản Nguyễn Văn Huyên chép ngày rằm tháng 5 năm Quý Sửu (1613) có nhật thực, thì bản Chính Hòa chép là nguyệt thực. Do đó, ông cho rằng bản Chính Hòa đã được sửa lại và bản Nguyễn Văn Huyên chưa được sửa. Bản Nguyễn Văn Huyên dung lượng chữ và số sự kiện nhiều hơn bản Chính Hòa của nhóm Lê Hy, chứng tỏ nhóm Lê Hy đã cô gọn lời văn và cắt bỏ sự kiện. Nhóm Lê Hy đã khảo đính lại bộ sử của nhóm Phạm Công Trứ, mà sửa sai, cô gọn lời văn và lược bỏ sự kiện là thao tác thông thường của người chỉnh lý.[26]
Như vậy, bản Nguyễn Văn Huyên phải xuất hiện trước bản Chính Hòa nên chỉ có thể là bản Cảnh Trị. Bản Nguyễn Văn Huyên là một phần của bản sách Đại Việt sử ký toàn thư cổ nhất đời Cảnh Trị còn được bảo lưu đến ngày nay.[26]
Tuy chỉ là một phần nhỏ, nhưng bản Nguyễn Văn Huyên đã ghi được nhiều sự kiện và chi tiết lịch sử có giá trị mà nhóm Lê Hy sau đó lược bỏ mất hoặc chép sơ lược hay sai khác hoàn toàn. Đó là những trận đánh Trịnh – Nguyễn phân tranh các năm 1627, 1633, 1634, 1640, 1643; những trận đánh tàn dư nhà Mạc ở Cao Bằng các năm 1621, 1638, 1639, 1643; các mệnh lệnh bổ nhiệm, thăng thưởng ghi công quan chức; sự qua đời của vua chúa và quan lại; chế độ thuế khóa, hành chính, lễ nghi, ngoại giao của triều đình đương thời; quan hệ phức tạp giữa các thế lực chính trị ở Việt Nam thời đó; cung cấp nhiều chi tiết mới về một số sự kiện lịch sử như hai cuộc nổi loạn của Trịnh Xuân, con trai chúa Trịnh Tùng.[26]
Năm 1993, trong lần xuất bản trọn bộ Đại Việt sử ký toàn thư bản Nội các quan bản 4 tập (bao gồm việc tái bản tập 1 và tập 2, xuất bản tập 3 và tập 4), bản Nguyễn Văn Huyên đã được Ngô Thế Long dịch và in vào phần Phụ lục ở cuối tập 3. Sau đó, bản Nguyễn Văn Huyên còn nhiều lần được tái bản trong những lần tái bản trọn bộ bản Nội các quan bản vào các năm 2000, 2004, 2009, 2010.
Thực đơn
Đại_Việt_sử_ký_toàn_thư Phản biện của Lê Trọng KhánhLiên quan
Đại Việt sử ký toàn thư Đại Việt Quốc dân Đảng Đại Vận Hà Đại Việt Đại Việt sử ký Đại Việt tấn công nhà Nguyên Đại Việt Cách mạng Đảng Đại Việt sử lược Đại Vĩ Hài Đại Việt sử ký tục biênTài liệu tham khảo
WikiPedia: Đại_Việt_sử_ký_toàn_thư http://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/sach/dvs... http://vietnamhistory.info/index.php?option=com_do... http://www.nomfoundation.org/Conf2006/3_vande_vanb... http://hanoimoi.com.vn/Tin-tuc/Van-hoa/534415/dai-... http://hannom.nlv.gov.vn/hannom/cgi-bin/hannom?a=d... http://hannom.nlv.gov.vn/hannom/cgi-bin/hannom?a=d... http://bachkhoatoanthu.vass.gov.vn/noidung/tudien/... http://bachkhoatoanthu.vass.gov.vn/noidung/tudien/... http://bachkhoatoanthu.vass.gov.vn/noidung/tudien/... http://bachkhoatoanthu.vass.gov.vn/noidung/tudien/...